Thực hiện Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2021 của Quốc hội. Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hậu Giang tổ chức lấy ý kiến đóng góp dự thảo Luật Điện ảnh (sửa đổi), có 05 lượt ý kiến đóng góp. Đa số ý kiến tán thành nội dung quy định của Luật; đánh giá cao tiếp thu chỉnh lý, giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Xin tổng hợp báo cáo như sau:
- Giải thích từ ngữ (Điều 3)
Tiêu chí xác định phim Việt Nam
Khoản 12, Điều 3 tiêu chí xác định phim Việt Nam gồm: Quốc tịch của đạo diễn; ngôn ngữ chính của phim; nhà đầu tư sản xuất phim. Trong đó, tiêu chí thứ ba “có ít nhất một nhà đầu tư Việt Nam tham gia vào quá trình sản xuất phim” quy định này chưa thực sự rõ ràng do không có căn cứ xác định như thế nào được coi là “tham gia” vào quá trình sản xuất phim. Khi đó, có thể có khả năng quy định này bị lạm dụng khi một pháp nhân nào đó ở Việt Nam đứng tên cùng pháp nhân nước ngoài trong danh sách nhà đầu tư sản xuất phim, nhưng thực tế không hoặc tham gia rất ít vào quá trình sản xuất phim. Việc này có thể đi ngược lại mục tiêu ban đầu của chính sách nhằm bảo vệ và tạo điều kiện phát triển ngành công nghiệp sản xuất phim trong nước.
Quy định của pháp luật cần xác định rõ con số mang tính định lượng cho sự tham gia vào quá trình sản xuất phim (ví dụ như cơ sở điện ảnh Việt Nam tham gia đầu tư ít nhất là 30% vốn vào quá trình sản xuất phim). Nếu không xác định rõ ràng thì có khả năng quy định này bị lạm dụng khi một cơ sở pháp nhân ở Việt Nam đứng tên cùng với cơ sở pháp nhân nước ngoài trong danh sách nhà đầu tư tham gia sản xuất phim để lợi dụng chính sách bảo vệ và tạo điều kiện phát triển ngành công nghiệp sản xuất phim trong nước.
Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc chỉnh sửa làm rõ tiêu chí trên, chẳng hạn quy định tỷ lệ phần chi phí đầu tư tối thiểu mà nhà đầu tư Việt Nam bỏ ra trong tổng chi phí đầu tư (chẳng hạn 30%).
2. Những nội dung và hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động điện ảnh (Điều 10)
Những nội dung quy định cấm trong điều này đã có trong Bộ Luật Dân sự 2015, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2016, Luật An ninh mạng 2018. Mặt khác, tác phẩm điện ảnh chỉ thực sự hấp dẫn khi phản ánh sinh động hiện thực, giàu chi tiết… Những quy định khá mơ hồ như “tiết lộ bí mật đời tư cá nhân”, hay “xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức”… Những quy định trên sẽ kìm hãm sự phát triển và sáng tạo của điện ảnh. Theo đó, đề nghị nên cấm (tuyệt đối) những hành vi vi phạm lợi ích công cộng, lợi ích toàn xã hội như tuyên truyền chống phá chế độ, chống phá nhà nước, tuyên truyền cổ vũ chiến tranh, bạo lực, đồi trụy, kỳ thị tôn giáo, sắc tộc, phản thuần phong mỹ tục dân tộc… Còn những nội dung “tiết lộ bí mật đời tư cá nhân hay xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức” nào đó sẽ bị cấm, xử phạt chỉ khi cá nhân, tổ chức có quyền lợi liên quan có khiếu nại, tố cáo, kiện ra toà…
Khoản 1, quy định các nội dung bị cấm trong hoạt động điện ảnh, là căn cứ để thẩm định phim. Tuy nhiên, quy định này chưa phù hợp do chưa tách bạch rõ ràng giữa những hành vi bị cấm tuyệt đối và những hành vi bị cấm tương đối. Theo kinh nghiệm ở các lĩnh vực khác, các hành vi cấm được phân thành 2 hình thức sau:
Loại thứ nhất là hành vi cấm tuyệt đối, là những hành vi vi phạm lợi ích công cộng (chẳng hạn tuyên truyền chống phá Nhà nước, kích động chiến tranh, bạo lực, xuyên tạc sự thật lịch sử, dâm ô, đồi trụy, mê tín dị đoan);
Loại thứ hai là hành vi bị cấm tương đối, là những hành vi có nội dung vi phạm lợi ích tư nhân, như xúc phạm cá nhân, tổ chức. Các hành vi này chỉ bị cấm nếu không được cá nhân, tổ chức đó đồng ý, cụ thể, nếu cá nhân, tổ chức có yêu cầu cho rằng nội dung đó xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình, thông qua các phương thức giải quyết, sẽ yêu cầu cơ sở điện ảnh không được phổ biến nội dung đó nữa. Do vậy, nếu cá nhân, tổ chức không phản đối thì những nội dung có dạng như trên vẫn được phép sản xuất, phổ biến và phát hành.
Do vậy, đề nghị sửa đổi quy định về các hành vi bị cấm theo hướng tách bạch thành hai loại như trên. Đồng thời, bổ sung quy định về phương án xử lý với từng loại nội dung vi phạm, chẳng hạn cho phép thực hiện phương thức kiện bồi thường thiệt hại với loại nội dung bị cấm tương đối.
Điểm g, khoản 1, quy định về những nội dung và hành vi bị cấm trong hoạt động điện ảnh như: “…vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân”. Đề nghị quy định rõ hơn về nội dung này vì trên thực tế một số tác phẩm điện ảnh thường phản ánh nhiều mặt của đời sống hiện thực, việc miêu tả những hiện tượng, mặt trái của xã hội, nhân vật phản diện, nằm trong một cơ quan, tổ chức nào đó là không thể tránh khỏi, nếu không quy định rõ nội dung này thì việc miêu tả hiện thực trong tác phẩm điện ảnh sẽ dễ bị một chiều, không được thể hiện các việc tiêu cực, gây phức tạp, làm khó cho người làm phim.
3. Sản xuất phim sử dụng ngân sách nhà nước (Điều 15)
Thống nhất phương án 2 “Giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng (đối với phim có nội dung, đề tài phục vụ nhiệm vụ chính trị) hoặc đấu thầu (đối với phim có các nội dung khác)”. Việc giữ hình thức đấu thầu nhằm tạo sự bình đẳng giữa các đơn vị nhà nước và các đơn vị tư nhân. Tuy nhiên, cũng cần xem xét tính khả thi của quy định để phù hợp với Luật Đấu thầu. Trên thực tế, áp dụng việc đấu thầu còn nhiều bất cập, vì kịch bản đa phần do các hãng phim trình duyệt, khi kịch bản được duyệt, nếu hãng phim trình duyệt không trúng thầu sản xuất phim thì nhiều khả năng hãng phim sẽ rút kịch bản. Vậy nên xem xét kỹ việc áp đấu thầu trong sản xuất phim.
4. Xuất khẩu phim, nhập khẩu phim (Điều 18)
Khoản 1, quy định phim xuất khẩu phải có Giấy phép phân loại phim hoặc Quyết định phát sóng. Tuy nhiên, quy định này cần xem xét ở một số điểm sau:
Thứ nhất, quy định này dường như không cần thiết. Giấy phép phổ biến hay Quyết định phát sóng chỉ thực hiện nhiệm vụ ngăn chặn những hoạt động điện ảnh chứa nội dung thuộc các trường hợp bị nghiêm cấm tại Điều 10, nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền, an ninh trật tự, danh dự, văn hóa, con người Việt Nam. Hay nói cách khác, các nội dung này nhằm đảm bảo sự phù hợp của điện ảnh theo mục tiêu quản lý của Nhà nước tại thị trường nội địa. Trong khi đó, thị trường nước ngoài với các phim xuất khẩu có thể có các quy định khác so với pháp luật Việt Nam, và do đó phim xuất khẩu chỉ cần tuân thủ pháp luật tại nước nơi nhập khẩu phim;
Thứ hai, quy định này chưa thực sự phù hợp. Hiện nay, không chỉ các doanh nghiệp, mà các nhà làm phim độc lập đều có thể sản xuất phim và tải lên các nền tảng trực tuyến (không chỉ các nền tảng OTT mà còn có thể là các nền tảng xem video như youtube, facebook hoặc các nền tảng đám mây). Phim trên các nền tảng này có thể được phổ biến cho người xem ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trường hợp này đã làm lu mờ đi khái niệm “biên giới” và gây khó khăn trong việc xác định thế nào là hành vi “xuất khẩu phim”.
Trong trường hợp phim chiếu trên các nền tảng trên chỉ áp dụng theo quy định tại Khoản 1 (tức là tự kiểm duyệt), dường như lại có sự phân biệt giữa việc phim xuất khẩu theo hình thức truyền thống với phim “xuất khẩu” trên internet. Rất khó lý giải tại sao phim xuất khẩu theo hình thức truyền thống lại cần kiểm duyệt mạnh mẽ hơn, trong khi phim xuất khẩu theo hình thức này thường có khả năng lan tỏa, tiếp cận ít hơn và khả năng thu hồi (nếu cần) cao hơn so phim trên internet. Vô hình trung, việc này lại khiến các phim của Việt Nam có xu hướng phát hành trên nền tảng hơn so với việc xuất khẩu chính thống do những phức tạp về mặt thủ tục. Vì những lý do trên, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định trên.
5. Phổ biến phim trên sóng truyền hình (Điều 21)
Hiện nay, cả nước có khoảng 70 đài truyền hình. Các đài này có chức năng kiểm duyệt các phim được chiếu trên hệ thống của mình. Tuy nhiên, giới hạn đối tượng chỉ ở phim truyền hình của chính đài đó là chưa khai thác hết khả năng của các đài truyền hình. Với năng lực đó, các đài có thể thực hiện việc kiểm duyệt với cả các phim chiếu rạp.
Các doanh nghiệp phổ biến phim có thể lựa chọn đài truyền hình phù hợp với tiêu chí của doanh nghiệp để xác lập hợp đồng cung cấp dịch vụ thẩm định phim. Hai bên có thể tự do thỏa thuận về nền tảng phổ biến phim, chi phí, thù lao, nghĩa vụ của các bên. Ví dụ, nếu phim được các đài truyền hình thẩm định “Đạt” khi nội dung phim đó không thuộc các trường hợp bị cấm tại Điều 10, nghĩa là tuân thủ pháp luật về hoạt động phổ biến điện ảnh nói chung, thì các doanh nghiệp hoàn toàn có thể phổ biến phim tại mọi rạp chiếu phim trên toàn quốc. Ngoài ra, tên của văn bản kết luận thẩm định của đài truyền hình phim, để ngắn gọn, đúng trọng tâm, nên đổi từ Quyết định phát sóng sang Kết quả thẩm định nội dung.
Các đài truyền hình có khả năng thẩm định phim và cấp Giấy phép phổ biến phim và phân loại phim đối với cả phim chiếu rạp và phim truyền hình. Điều này không đồng nghĩa với việc sử dụng dịch vụ thẩm định phim của đài truyền hình thì phải được phổ biến trên đài truyền hình đó, mà hoàn toàn phụ thuộc vào hợp đồng, thỏa thuận của các bên.
Cơ chế này không chỉ nâng cao quyền tự do sáng tạo của các nhà làm phim, thúc đẩy cạnh tranh thẩm định giữa các đài truyền hình và doanh nghiệp phổ biến phim mà còn giảm gánh nặng về các thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp, giải quyết vấn đề về thời gian thẩm định phim kéo dài qua các cơ quan nhà nước do các cơ quan còn nhiều công việc khác phải giải quyết. Thực tế, cơ chế chuyển từ Nhà nước độc quyền kiểm định hàng hóa sang cơ chế ủy quyền cho nhiều đơn vị khác có quyền kiểm định đã được thực hiện thành công ở rất nhiều lĩnh vực như dược phẩm, thuốc bảo vệ thực vật, an toàn thực phẩm… Trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá thì sách và xuất bản phẩm cũng đã được trao quyền cho nhiều nhà xuất bản khác nhau trên cả nước chứ không phải một đầu mối tập trung.
Thậm chí cơ chế thẩm định này có thể mở rộng ra cho các doanh nghiệp tư nhân nếu có đủ nguồn lực, nhân lực và thí điểm ở một số lĩnh vực như thể thao, giải trí… Các nhóm có nhiều cá nhân đã có nhiều năm kinh nghiệm làm thẩm định phim tại các cơ quan nhà nước, đài truyền hình có đủ khả năng chuyên môn cung cấp dịch vụ thẩm định phim.
Với những lý do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo mạnh dạn đổi mới cơ chế kiểm duyệt định phim, cụ thể như sau:
Bỏ cơ chế thẩm định phim của các cơ quan trung ương và cơ quan địa phương, và giao trách nhiệm này cho các cơ quan báo chí đã có giấy phép phát thanh - truyền hình;
Phim được công chiếu trên toàn quốc (bao gồm cả phim chiếu rạp và phim truyền hình) nếu có Kết quả thẩm định nội dung phim “Đạt” của bất kỳ đài truyền hình nào.
Nghiên cứu cơ chế cấp phép cho một số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thẩm định phim, nếu có đủ điều kiện nhân lực.
6. Quyền sở hữu trí tuệ với điện ảnh trên không gian mạng (Điều 22)
Đề nghị phổ biến phim trên không gian mạng cần kết hợp hậu kiểm và tiền kiểm, trong đó về cơ bản thì hậu kiểm, nhưng một số trường hợp phải tiền kiểm nội dung phổ biến trên không gian mạng, đảm bảo không mâu thuẫn với Luật An ninh mạng, đặc biệt phải đảm bảo sự công bằng trong khâu kiểm duyệt giữa phim truyền hình và phim điện ảnh. Đồng thời, phối hợp và xử lý các trường hợp vi phạm theo quy định của pháp luật.
Hiện nay việc bảo hộ quyền tác giả đối với các nhà làm phim Việt Nam vẫn còn nhiều khoảng trống pháp lý. Tình trạng các phim bị quay lậu tại các rạp chiếu phim và phổ biến phim trên không gian mạng diễn ra tương đối nhiều mà chưa có biện pháp ngăn chặn hiệu quả. Hệ quả là các doanh nghiệp tốn rất nhiều chi phí đầu tư vào sản xuất phim, nhưng sản phẩm trí tuệ của họ có thể bị đánh cắp một cách dễ dàng.
Các chế tài xử lý vi phạm hành chính chưa đủ tính răn đe và mặc dù có quy định về trách nhiệm hình sự hành vi vi phạm quyền tác giả, có rất ít trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự đối với người xem phổ biến phim ra ngoài khi chưa có sự đồng ý của tác giả và đơn vị phổ biến, phát hành phim. Đặc biệt, hiện chưa có chế tài nào cho các rạp chiếu phim có người xem phổ biến phim ra không gian mạng. Khi các nhà sản xuất phim thỏa thuận với các rạp chiếu phim, bảo vệ quyền tác giả của nhà sản xuất phim là một trong những nghĩa vụ của các đơn vị phổ biến phim. Nói cách khác, khi rạp chiếu phim để người xem phổ biến phim trên không gian mạng, rạp chiếu phim đã một phần vi phạm nghĩa vụ với đơn vị sản xuất phim, do đó rạp chiếu phim cần chịu trách nhiệm về việc không đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ cho nhà sản xuất phim.
Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định như sau:
Chế tài cho các rạp chiếu phim có người xem phổ biến phim trên không gian mạng;
Điều kiện với doanh nghiệp nước ngoài phổ biến phim trên không gian mạng Khoản 5, đề nghị bổ sung quy định doanh nghiệp nước ngoài phổ biến phim trên mạng phải đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở Việt Nam cho phù hợp một số quy định của pháp Luật khác.
7. Phân loại phim (Điều 33)
Phim được phân loại như sau:
a) Loại P: Phim được phép phổ biến đến mọi độ tuổi người xem;
b) Loại T18: Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 18 tuổi trở lên;
c) Loại T16: Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 16 tuổi trở lên;
d) Loại T13: Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 13 tuổi trở lên;
đ) Loại K: Phim được phổ biến đến người xem dưới 13 tuổi với điều kiện xem cùng cha, mẹ hoặc người giám hộ;
e) Loại C: Phim không được phép phổ biến.
Ngoài quy định về phân loại phim theo độ tuổi từ loại P, T18, T16, T13, K và loại C, cần quy định thêm phân loại phim T21 hoặc T25 là phim được phổ biến đến người xem từ đủ 21 tuổi hoặc từ đủ 25 tuổi trở lên, việc quy định thêm sẽ góp phần thúc đẩy sự sáng tạo của các nhà làm phim, đây là những độ tuổi trưởng thành, ít bị tác động so với độ tuổi 18 tuổi.
8. Phim tham gia liên hoan phim, liên hoan phim chuyên ngành, chuyên đề, giải thưởng, cuộc thi phim, chương trình phim, tuần phim nước ngoài (Điều 41)
Quy định phim Việt Nam tham dự liên hoan phim nước ngoài cần phải có Giấy phép phổ biến phim của cơ quan quản lý nhà nước hoặc Quyết định phát sóng của Đài truyền hình. Quy định có thể suy đoán nhằm bảo đảm tác phẩm phải đảm bảo không có nội dung bị cấm. Tuy nhiên, quy định này chưa phù hợp và có thể tạo ra rào cản ngăn cản phim Việt tham dự liên hoan phim quốc tế. Cụ thể, như đã phân tích ở trên, Giấy phép phổ biến phim hay Quyết định phát sóng nhằm đảm bảo sự phù hợp của phim với khán giả và định hướng quản lý trong nước. Trong khi đó, phim tham dự liên hoan phim thường hướng đến tính nghệ thuật của tác phẩm, ngăn cản quyền tự do sáng tạo nghệ thuật của tác giả, cũng ảnh hưởng đến yếu tố nghệ thuật của tác phẩm. Mặt khác, theo kinh nghiệm từ các lĩnh vực khác, khi nền điện ảnh còn đang non trẻ, việc cần làm là khuyến khích sự phát triển thông qua việc tạo không gian phát triển, giảm bớt thủ tục hành chính. Các biện pháp quản lý có thể được cân nhắc áp dụng trở lại khi nền điện ảnh đã đủ mạnh (với mục đích bảo vệ hình ảnh tốt đã được xây dựng của ngành). Vì những lý do trên, đề nghị bỏ quy định trên.
9. Một số nội dung khác
Ngoài các điều luật quy định về sản xuất phim của các doanh nghiệp, đề nghị bổ sung quy định việc cấp giấy phép, nộp lưu chiểu phim… cần có các quy định chi tiết cho việc sản xuất phim tại các Trung tâm Điện ảnh, Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Quy định về điều kiện thành lập, tổ chức bộ máy, đơn giá cụ thể cho việc sản xuất phim truyện, phim tài liệu…).
Trên đây là tổng hợp ý kiến đóng góp dự thảo Luật Điện ảnh (sửa đổi) của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hậu Giang./.